Cơ chế hấp thụ iod hormon tuyến giáp và phát triển biểu mô trong cơ thể trẻ
Sự bắt iod cần năng lượng, nhờ vào (bơm iod( với sự hoạt động của Na-K-ATPase, quá trình này có thể bị chặn lại bởi ouabain và perclorat, các chất này cạnh tranh với iod.
Đặc điểm giải phẫu và tổ chức học
Tuyến giáp nằm trước khí quản, dưới sụn giáp, nặng 20-25g, gồm 2 thùy, có eo ở giữa, cao 6cm, rộng 3cm, dày 2cm.
Cấu trúc gồm nhiều nang giáp, trong chứa đầy dịch keo, xen lẫn hệ thống mạch máu rất phong phú (1% lưu lượng tim), ở đây tổng hợp và dự trữ hormon T3, T4.
Hình: Nang giáp.
Các nang giáp cấu tạo bởi những tế bào tuyến, đáy tiếp xúc với mao mạch, đỉnh tế bào tiếp xúc với dịch keo trong lòng nang.
Ngoài ra, cạnh các nang giáp, các tế bào cạnh nang bài tiết ra calcitonin là hormon tham gia chuyển hoá can-xi (hình 4).
Tổng hợp hormon giáp
Iod là chất chủ yếu cho sự tổng hợp hormon giáp. Quá trình tổng hợp hormon gồm 4 giai đoạn :
Bắt iod
Trong tuyến giáp, sự bắt iod phải có mặt của TSH. Nó tăng khi tuyến bị kích thích bởi TSH hay khi dự trữ hormon trong tuyến giáp giảm.
Iod huyết tương lưu hành trong máu dưới dạng iodure (I- ) đến từ các nguồn sau:
Từ thức ăn, trung bình 100 đến 300 microgram mỗi ngày
Từ sự khử iod ở ngoại vi của hormon giáp
Cuối cùng iod được lấy từì sự khử iod của mono-iodotyrosine (MIT) và di-iodotyrosine (DIT) .
Sự bắt iod của tuyến giáp sẽ giảm nếu như nguồn cung cấp vượt quá 4mg/ngày.
Sự bắt iod cần năng lượng, nhờ vào (bơm iod( với sự hoạt động của Na-K-ATPase, quá trình này có thể bị chặn lại bởi ouabain và perclorat, các chất này cạnh tranh với iod. Khi vào trong tế bào giáp, các iod này sẽ trộn lẫn với iodur được giải phóng sau khi bài tiết hormon giáp và nhanh chóng được sử dụng để tổng hợp phân tử hormon giáp mới. Ở tuyến giáp bình thường, bơm iod tập trung iod tại tuyến giáp gấp 30 lần trong máu. Ở tuyến giáp tăng hoạt động, sự tập trung này có thể tăng đến gấp 250 lần.
Tổng hợp và dự trữ hormon giáp
Sự tổng hợp và dự trữ hormon giáp liên kết với thyroglobulin. Đây là chất cần thiết cho sự iod hóa và tạo nên dạng dự trữ hormon giáp trước khi bài tiết ra ngoài.
Trong tế bào giáp, mạng nội bào tương và lưới golgi tổng hợp và bài tiết thyroglobulin vào dịch keo, là một glycoproteine trọng lượng phân tử 660.000, được mã hóa về mặt di truyền. Một phân tử thyroglobulin có 2 tiểu đơn vị với trọng lượng phân tử tương đương (330.000), nhưng trong dịch keo nó ở dạng không đồng nhất.
Oxy hoá iod: Bước đầu tiên của sự hình thành hormon giáp là oxy hóa I– thành iodine (I2), đây là dạng có khả năng gắn với gốc amino acid tyrosin của phân tử thyroglobulin. Quá trình này có sự tham gia của men peroxydase và kèm theo nó là hydrogen peroxydase. Peroxydase khu trú ở cực đỉnh của tế bào giáp và sự oxy hóa iod xảy ra đúng vị trí mà ở đó thyroglobulin được tạo thành và đổ vào dịch keo. Khi hệ thống peroxydase bị cản hoặc do thiếu bẩm sinh thì tốc độ hình thành hormon giáp giảm xuống bằng 0.
Sự gắn iod vào tyrosin: Sự gắn iod vào phân tử thyroglobulin gọi là sự hữu cơ hóa thyroglobulin và gắn độ 1/6 gốc tyrosin trên phân tử thyroglobulin nhờ men iodinase. Đầu tiên, tyrosin được gắn với 1 và 2 iod để tạo thành MIT (T1) và DIT (T2). Tiếp đó trong vài phút, vài giờ hoặc vài ngày, các DIT ghép cặp để tạo thành thyroxin , một MIT ghép với một DIT để hình thành Tri-iodothyronin T3.
Như vậy, T3T4 được tạo thành, chính là dạng hormon tuyến giáp và vẫn gắn vào phân tử thyroglobulin ở dạng dự trữ.
Mỗi phân tử thyroglobulin chứa 1 đến 3 T4 và 14 thyroxin có 1 phân tử T3. Ở dạng này, hormon giáp dự trữ trong dịch keo đủ cung cấp cho cơ thể trong 2-3 tháng.
Quá trình hữu cơ hóa được tự điều hòa bởi lượng I– hiện diện trong tế bào giáp: ở tuyến bị kích thích mạnh trước đó, hoặc do thiếu iod, hoặc do TSH ngoại sinh, hoặc nguồn iod quá thừa dẫún đến tăng nồng độ iod trong tế bào giáp. Điều này dẫn đến hai hậu quả : (i) hình thành iod bất hoạt (I3) gây cản trở tổng hợp hormon tuyến giáp (ii) lượng iod thừa sẽ cản trở thu nhận iod, tất nhiên dẫn đến giảm I- trong giáp và giảm lượng hormon giáp.
Tuy nhiên, sự cản trở tổng hợp hormon sẽ được giải tỏa sau một thời gian. Sự tự điều hòa trên được gọi là hiệu ứng Wolff – Chaikoff.
Sự di chuyển của hormon giáp
Quá trình này diễn ra ngược lại với sự thu nhận iod: từ dịch keo đi qua tế bào và từ cực đỉnh đến cực mạch máu. Bắt đầu bằng sự hình thành các chân giả ở các nhung mao phía màng đỉnh của tế bào giáp. Chúng sẽ lấy các giọt keo tạo nên một cái túi trong lòng nó, rồi kết hợp với các lysosom chứa enzym tiêu hóa. Proteinas là một trong số các enzym này, tiêu hóa phân tử thyroglobulin và phóng thích T3, T4 bằng cách cắt các dây nối peptid gắn hormon với phân tử protein này. Các hormon khuếch tán về cực mạch máu để đổ vào mao mạch xung quanh, một số đi vào ống bạch huyết.
Khoảng 3/4 tyrosin đã được iod hóa trong thyroglobulin vẫn ở dạng MIT và DIT. Cùng với sự phóng thích T3, T4, các dạng này cũng được phóng thích nhưng không được tiết vào máu, mà bị khử iod bởi men deiodinase. Chính những iod này quay trở lại trong tuyến để góp phần tạo hormon giáp mới.
Sự bài tiết hormon giáp
Độ 93% hormon được phóng thích từ giáp là thyroxine (100nmol/24giờ) và chỉ hơn 7% là T3 (10 nmol/24giờ). Sau vài ngày phần lớn T4 bị khử iod để tạo thành T3. Cuối cùng hormon đến và hoạt động trên tổ chức chủ yếu là T3, có độ 35 microgram T3 được tạo nên mỗi ngày nhưng chúng không có hoạt tính và có thể bị phá hủy.
Hàm lượng T4 toàn bộ trong huyết tương trong khoảng 50-140 nmol/l và T3 là 1,2-3,4 nmol/l, phần lớn được kết hợp với protein huyết tương. T3,T4 tự do được đo trực tiếp bằng kỹ thuật miễn dịch phóng xạ, T4 tự do (f-T4) bằng 12 pmol/l, T3 tự do (f-T3) là 30pmol/l, đây chính là dạng hoạt động của hormon.
Chuyển hóa hormon giáp
Trong máu phần lớn T4 chuyển thành T3 và RT3 (reverse T3), T3 là hormon hoạt động trên tổ chức (80% do T4 chuyển sang, 20% do tuyến giáp tiết trực tiếp), có hoạt tính sinh học gấp 5 lần T4.
Sau khi tác dụng, hormon giáp bị khử iod trong gan, thận và nhiều mô khác, một số iod sẽ được tái hấp thu vào máu được sử dụng lại, một ít đào thải qua phân.
Tỷ lệ tái hấp thu và bài tiết còn lệ thuộc vào nguồn cung cấp iod. Ví dụ: mỗi ngày cơ thể thu nhận từ thức ăn, nước uống là 500(g iod, thì khoảng 120(g vào tuyến giáp và tuyến giáp sẽ dùng 80(g để tạo T3, T4, còn 40(g khuếch tán vào dịch ngoại bào. Sau đó T3, T4 bị khử iod, giải phóng 60(g. Tổng cộng mỗi ngày có khoảng 600(g iod trong cơ thể, 20( sẽ được tái hấp thu vào tuyến giáp, còn 80( đào thải theo nước tiểu. Định lượng iod trong nước tiểu biết được lượng iod thu nhập hàng ngày.
Tác dụng của hormon giáp
Tác dụng lên chuyển hóa tế bào
T4, T3 làm tăng tiêu thụ O2 ở hầu hết các mô trong cơ thể nên làm tăng chuyển hóa cơ sở (CHCS), ngoại trừ não, tinh hoàn, tử cung, lách, bạch huyết, tiền yên. CHCS có thể tăng từ 60-100% trên mức bình thường khi một lượng lớn hormon được bài tiết.
Tăng kích thước và số lượng ty lạp thể, do đó tăng ATP để cung cấp năng lượng cho các hoạt động chức năng của cơ thể.
Khi T3, T4 tăng quá cao (cường giáp), các ty lạp thể càng tăng hoạt động, năng lượng không tích lũy hết dưới dạng ATP mà thải ra dưới dạng nhiệt.
Hormon giáp có tác dụng hoạt hoá men Na+ -K+ -ATPase do đó làm tăng vận chuyển ion Na+ và K+ qua màng tế bào một số mô, quá trình này cần sử dụng năng lượng và tăng sinh nhiệt nên được coi đây là cơ chế làm tăng chuyển hoá của cơ thể.
Tác dụng trên sự tăng trưởng
Thể hiện rõ ở thời kỳ đang lớn của đứa trẻ, cùng với GH làm cơ thể phát triển. Đặc biệt có tác dụng phát triển bộ não thai nhi và những năm đầu sau sinh.
Tác dụng trên chuyển hóa
Glucid: hormon giáp tác dụng hầu hết các giai đoạn của quá trình chuyển hoá glucid, bao gồm tăng thu nhận glucose ở ruột, tăng tạo đường mới, tăng phân hủy glycogen thành glucose ở gan, do đó gây tăng glucose máu nhưng chỉ tăng nhẹ.
Lipid: tăng thoái hóa lipid ở mô mỡ dự trữ, gây tăng nồng độ acid béo tự do huyết tương và tăng oxy hóa acid béo tự do ở mô để cho năng lượng. Giảm lượng cholesterol, phospholipid, triglycerid huyết tương, do đó người nhược năng tuyến giáp có thể có tình trạng xơ vữa động mạch.
Protid: ở liều sinh lý, T3,T4 làm tăng tổng hợp protein giúp cho sự phát triển và tăng trưởng cơ thể, nhưng ở liều cao, tác dụng dị hóa nổi bật, gây mất protein ở mô, vì vậy người bệnh cường giáp thường gầy.
Tác dụng trên chuyển hóa vitamin
T3,T4 cần cho sự hấp thu vitamin B12 ở ruột và chuyển caroten thành vitamin A.
Tác dụng trên hệ thần kinh cơ
Hormon giáp thúc đẩy phát triển trí tuệ, liều cao gây hoạt bát, bồn chồn, kích thích; nhược năng ở trẻ gây chậm phát triển về trí tuệ.
Hoạt hóa synap, làm ngắn thời gian dẫn truyền qua synap, do đó ở bệnh nhân cường giáp, thời gian phản xạ gân xương ngắn, đồng thời, tăng hoạt động các synap thần kinh ở vùng tủy chi phối trương lực cơ gây dấu hiệu run cơ.
Tác dụng lên tim mạch
Trên tim làm tăng số lượng (-receptor ở tim, do đó tim nhạy cảm với catecholamin nhiều hơn, làm nhịp tim nhanh.
Trên mạch máu: tăng chuyển hóa và tăng các sản phẩm chuyển hóa ở mô gây dãn mạch, làm tăng lưu lượng tim, có khi tăng trên 60% trong cường giáp và giảm chỉ còn 50% so với bình thường trong nhược năng giáp.
Tác dụng lên cơ quan sinh dục
Sự hoạt động bình thường của tuyến giáp cần thiết cho sự phát triển bình thường của bộ máy sinh dục. Ở nam giới, thiếu hormon giáp gây mất dục tính nhưng bài tiết nhiều có thể gây bất lực. Ở nữ giới, thiếu hormon giáp gây rong kinh, đa kinh nhưng thừa hormon gây ít kinh, vô kinh hoặc giảm dục tính.
Điều hòa bài tiết hormon giáp
Tuyến giáp được kiểm soát bởi TSH tiền yên, sự bài tiết TSH tăng dưới tác dụng của TRH và lạnh, giảm khi bị stress, nóng…T4,T3 tự do ức chế ngược sự bài tiết TSH, TSH bị điềìu khiển bởi TRH.
Trong điều kiện sinh lý, chỉ cần 55(g iod/ngày vào tuyến giáp, nếu sự cung cấp gia tăng (10 giọt Lugol chứa 60.000(g iod) xuất hiện sự giảm thu nhận iod hữu cơ, cũng như ức chế giải phóng hormon.
Các rối loạn chức năng giáp
Ưu năng tuyến giáp
Cường giáp hay gặp nhất là thể bệnh Graves (Basedow) tuyến phì đại và lồi mắt. Đây là bệnh tự miễn, cơ thể sản sinh kháng thể chống lại kháng nguyên tuyến giáp, kháng thể gắn vào receptor tiếp nhận TSH kích thích sự bài tiết hormon giáp, kháng thể này được gọi là TSI (Thyroid Stimulating Immunoglobulin). Nghiên cứu miễn dịch phóng xạ, cho thấy TSH giảm, có khi bằng 0. Ở phần lớn bệnh nhân, kháng thể kháng mô hố mắt được tìm thấy trong máu.
Ngoài ra, cường giáp còn gặp trong u tuyến giáp, hiếm gặp hơn, nồng độ cao hormon giáp ức chế tuyến yên bài tiết TSH do đó phần còn lại của giáp hầu như không hoạt động. Tất cả những triệu chứng lâm sàng của cường giáp đều do tăng nồng độ T3,T4 trong máu.
Nhược năng giáp
Nguyên nhân tại tuyến giáp, tuyến yên hoặc vùng dưới đồi, thường gặp là suy giáp do tự miễn. Thường biểu hiện bằng hiện tượng viêm tuyến giáp sau đó tuyến giáp dần xơ hoá và giảm chức năng.
Hội chứng suy giáp do nhược năng tuyến giáp, giảm lượng thyroxin, bệnh nhân thường chậm chạp, nhịp tim chậm, ngủ nhiều…Có biểu hiện phù niêm là dạng phù do ứ động dưới da acid hyaluronic và chondrotin sulfat kèm với protein trong khoảng kẽ. Ngoài ra người suy giáp có thể bị xơ vữa động mạch do tăng nồng độ cholesterol máu, đặc biệt ở suy giáp thể phù niêm (Myxoedema).
Lùn giáp (chứng đần độn: Cretinisme): trẻ bị suy giáp ngay sau khi sinh, lùn, trí tuệ kém phát triển, lưỡi to. Nguyên nhân do mẹ thiếu iod lúc mang thai hoặc bất thường tuyến giáp bẩm sinh. Có thể điều trị ngay sau sinh.
Thiếu iod: khi sự hấp thu iod dưới 10(g/ngày, sự tổng hợp hormon giáp không đủ, TSH tăng, gây phì đại giáp: Bướu cổ địa phương. Giai đoạn đầu chức năng giáp còn bình thường, nhưng nếu không điều trị dần dần sẽ dẫn đến suy giáp.
Chủ trương cung cấp muối iod được thực hiện ở nhiều nước và kết quả làm giảm tỷ lệ bướu cổ xuống rõ rệt. Ở nước ta, qua những cuộc điều tra ở vùng đồng bằng và ngay cả vùng ven biển cũng thiếu iod. Từ tháng 1 năm 1995 toàn dân được cung cấp muối iod.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác ngăn cản tổng hợp hormon giáp (sắn, rau cải, thuốc lá…) gây Bướu cổ rải rác.
Thừa iod
Khi sự cung cấp iod quá mức qui định (> 400-1000 (g/ngày) kéo dài có thể gây những rối loạn chức năng giáp.
Hormon calcitonin
Do các tế bào cạnh nang bài tiết, chỉ chiếm 0,1% tuyến giáp. Đây là một polypeptid có 32 acid amin, trọng lượng phân tử 3400.
Tác dụng làm giảm nồng độ canxi huyết tương do làm giảm hoạt động của tế bào huỷ xương, tăng lắng đọng muối canxi ở xương và giảm hình thành các tế bào huỷ xương mới. Tác dụng trên quan trọng ở trẻ đang lớn nhằm đáp ứng với tốc độ thay đổi xương nhanh trong thời kỳ đang phát triển.
Sự bài tiết calcitonin được điều hoà bởi nồng độ ion Ca++ huyết tương. Sự tăng nồng độ ion Ca++ khoảng 10% thì bài tiết calcitonin tăng gấp 2-3 lần. Tuy nhiên tác dụng duy trì nồng độ canxi mạnh và kéo dài chủ yếu là tác dụng của parathormon.
Điều trị nhược giáp có thể gây nguy cơ tăng giáp
Đôi khi một vấn đề không phổ biến được gọi là bệnh mắt graves có thể ảnh hưởng đến mắt. Trong rối loạn này, nhãn cầu nhô ra ngoài quỹ đạo bình thường bảo vệ khi các mô và cơ đằng sau mắt sưng lên. Điều này đẩy nhãn cầu phía trước phình ra khỏi quỹ đạo.
Định nghĩa
Cường giáp là một tình trạng mà trong đó tuyến giáp tạo ra quá nhiều hoóc môn thyroxine. Cường giáp có thể tăng tốc đáng kể sự trao đổi chất của cơ thể, làm giảm cân đột ngột, nhịp tim nhanh hoặc không đều, ra mồ hôi và căng thẳng hoặc khó chịu.
Một số lựa chọn điều trị có sẵn nếu có cường giáp. Các bác sĩ sử dụng thuốc kháng giáp và iốt phóng xạ để làm chậm sự sản xuất hormone tuyến giáp. Đôi khi, điều trị cường giáp liên quan đến việc phẫu thuật cắt bỏ một phần tuyến giáp. Mặc dù cường giáp có thể nghiêm trọng nếu bỏ qua nó, hầu hết mọi người chỉ cần một lần khám để được chẩn đoán và điều trị.
Các triệu chứng
Cường giáp có thể bắt chước các vấn đề sức khỏe khác, có thể gây khó cho bác sĩ chẩn đoán. Nó cũng có thể gây ra một loạt các dấu hiệu và triệu chứng, bao gồm:
Giảm cân đột ngột, ngay cả khi sự ngon miệng và chế độ ăn uống vẫn bình thường hoặc thậm chí tăng.
Nhịp tim nhanh – thường hơn 100 nhịp một phút – loạn nhịp tim hoặc đánh trống ngực.
Tăng sự thèm ăn.
Căng thẳng, lo lắng và khó chịu.
Run – thường là run tay và các ngón tay.
Ra mồ hôi.
Thay đổi trong các mô hình kinh nguyệt.
Tăng nhạy cảm với nhiệt.
Thay đổi mô hình ruột, đi tiêu đặc biệt là thường xuyên hơn.
Phì đại tuyến giáp (bướu cổ).
Mệt mỏi, yếu cơ.
Khó ngủ.
Những người lớn tuổi có nhiều khả năng có hoặc không có dấu hiệu hay triệu chứng hoặc có mức độ nhẹ, như nhịp tim tăng lên, không dung nạp nhiệt và xu hướng mệt mỏi trong các hoạt động bình thường. Thuốc men được gọi là beta blocker, được sử dụng để điều trị huyết áp cao và các vấn đề khác, có thể giúp trong những dấu hiệu của cường giáp.
Bệnh mắt graves (Graves ‘ophthalmopathy)
Đôi khi một vấn đề không phổ biến được gọi là bệnh mắt graves có thể ảnh hưởng đến mắt. Trong rối loạn này, nhãn cầu nhô ra ngoài quỹ đạo bình thường bảo vệ khi các mô và cơ đằng sau mắt sưng lên. Điều này đẩy nhãn cầu phía trước phình ra khỏi quỹ đạo. Điều này có thể làm cho bề mặt phía trước của nhãn cầu trở nên rất khô. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh mắt graves bao gồm:
Lồi nhãn cầu.
Hoặc mắt sưng đỏ.
Quá rát hoặc khó chịu ở một hoặc cả hai mắt.
Độ nhạy sáng, tầm nhìn bị mờ hoặc đôi, viêm nhiễm, hoặc chuyển động của mắt giảm.
Nếu trải nghiệm giảm cân không giải thích được, nhịp tim nhanh, ra mồ hôi bất thường, u tại cổ, hoặc các triệu chứng khác liên quan đến cường giáp, gặp bác sĩ. Điều quan trọng là hoàn toàn mô tả những thay đổi đã quan sát, bởi vì nhiều dấu hiệu và triệu chứng của cường giáp có thể được kết hợp với một số vấn đề khác.
Nếu đã được điều trị cường giáp hoặc hiện đang được điều trị, gặp bác sĩ thường xuyên để theo dõi tình trạng.
Nguyên nhân
Một số vấn đề bao gồm cả bệnh Graves, u tuyến độc, bệnh của Plummer (bướu cổ độc multinodular) và viêm tuyến giáp có thể gây cường giáp.
Tuyến giáp là một tuyến có hình con bướm nằm ở đáy của cổ, ngay dưới quả táo Adam. Mặc dù nó nặng ít hơn một ounce, tuyến giáp có tác động rất lớn đến sức khỏe. Mọi khía cạnh của sự trao đổi chất được quy định bởi hormone tuyến giáp.
Tuyến giáp tạo ra hai hormone chính, thyroxine (T-4) và triiodothyronine (T-3), có ảnh hưởng đến mọi tế bào trong cơ thể. Nó duy trì tốc độ cơ thể sử dụng các chất béo và carbohydrate, giúp kiểm soát nhiệt độ cơ thể, ảnh hưởng đến nhịp tim và giúp điều chỉnh việc sản xuất các protein. Tuyến giáp cũng sản xuất calcitonin, một hormon giúp điều chỉnh lượng canxi trong máu.
Hoạt động của tuyến giáp
Tốc độ T-4 và T-3 phát hành được kiểm soát bởi tuyến yên và vùng dưới đồi – một khu vực tại não hoạt động như kích hoạt cho toàn bộ hệ thống. Đây là cách xử lý:
Các tín hiệu vùng dưới đồi tuyến yên chỉ huy hormone tuyến giáp được gọi là hormone kích thích (TSH). Tuyến yên sau đó phát hành TSH – số tùy thuộc vào T-4 và T-3 có trong máu. Nếu không có đủ T-4 và T-3 trong máu, TSH sẽ tăng lên, nếu có quá nhiều, mức TSH sẽ giảm. Cuối cùng, tuyến giáp sản xuất số lượng các hormone dựa trên số lượng TSH nó nhận được. Nếu tuyến giáp bị bệnh và được phát hành quá nhiều hormone tuyến giáp, mức TSH trong máu dưới mức bình thường, nếu các bệnh tuyến giáp không thể tạo đủ nội tiết tố tuyến giáp, mức TSH trong máu cao.
Lý do quá nhiều thyroxine (T-4)
Bình thường, tuyến giáp phát hành đúng lượng kích thích tố, nhưng đôi khi nó tạo ra quá nhiều T-4. Điều này có thể xảy ra vì một số lý do, bao gồm:
Graves. Graves là một rối loạn tự miễn dịch trong đó các kháng thể được sản xuất bởi hệ miễn dịch kích thích tuyến giáp để tạo ra quá nhiều T-4, là nguyên nhân phổ biến nhất của cường giáp. Thông thường, hệ thống miễn dịch sử dụng các kháng thể để giúp bảo vệ chống lại virus, vi khuẩn và các chất lạ khác xâm nhập cơ thể. Trong Graves, kháng thể tấn công nhầm tuyến giáp và đôi khi mô đằng sau mắt (Graves’ opxhalmopathy) và da, thường ở chân – mào xương chày cẳng chân (Graves ‘dermopathy). Các nhà khoa học không chắc chắn chính xác những gì gây ra bệnh Graves, mặc dù một số yếu tố – trong đó có một khuynh hướng di truyền – có khả năng tham gia.
Tăng năng bướu tuyến giáp (u tuyến độc, bướu cổ đa nhân độc hại, bệnh Plummer). Cường giáp xảy ra khi một hoặc nhiều u tuyến của tuyến giáp sản xuất quá nhiều T-4. U tuyến một phần của tuyến này có vách từ phần còn lại của tuyến, tạo thành cục u không phải ung thư (lành tính) có thể gây ra phì đại tuyến giáp. Không phải tất cả u tuyến sản xuất T-4 dư thừa, và các bác sĩ không chắc chắn những gì gây ra sản xuất quá nhiều hormone.
Viêm tuyến giáp. Đôi khi tuyến giáp có thể bị viêm vì lý do không rõ. Viêm nhiễm có thể gây ra dư thừa hormone tuyến giáp được lưu trữ trong tuyến rò rỉ vào máu. Một loại hiếm viêm tuyến giáp, viêm tuyến giáp được gọi là bán cấp, nguyên nhân gây đau ở tuyến giáp. Các loại khác không gây đau đớn và đôi khi có thể xảy ra sau khi mang thai (viêm tuyến giáp sau sinh).
Yếu tố nguy cơ
Cường giáp, đặc biệt là Graves, có xu hướng chạy trong gia đình và phổ biến ở phụ nữ hơn ở nam giới. Nếu một thành viên khác của gia đình có tình trạng tuyến giáp, nói chuyện với bác sĩ về những điều này.
Các biến chứng
Cường giáp có thể dẫn đến một số biến chứng:
Vấn đề về tim. Một số trong những biến chứng nghiêm trọng nhất của cường giáp liên quan đến tim. Chúng bao gồm nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim được gọi là rung nhĩ và suy tim sung huyết – một tình trạng mà tim không thể lưu thông máu đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Các biến chứng này thường giảm với điều trị thích hợp.
Giòn xương. Nếu không điều trị cường giáp cũng có thể dẫn đến xương yếu, dễ gãy (loãng xương). Sức mạnh của xương phụ thuộc một phần vào số lượng canxi và các khoáng chất khác mà nó có. Quá nhiều hormon tuyến giáp cản trở khả năng kết hợp canxi vào xương của cơ thể.
Vấn đề mắt. Những người có vấn cường giáp phát triển các vấn đề về mắt, trong đó mắt phồng lên, mắt đỏ hoặc sưng, nhạy cảm với ánh sáng và mờ hoặc nhìn đôi.
Đỏ, sưng da. Trong trường hợp hiếm, những người Graves phát triển vấn đề về da, có ảnh hưởng đến da, gây mẩn đỏ và sưng, thường trên mào xương chày và bàn chân.
Cơn cường giáp cấp. Cường giáp cũng có nguy cơ cơn cường giáp cấp – sự tăng đột ngột các triệu chứng, dẫn đến một cơn sốt, nhịp tim nhanh và thậm chí mê sảng. Nếu điều này xảy ra, ngay lập tức tìm kiếm sự chăm sóc y tế.
Kiểm tra và chẩn đoán
Cường giáp được chẩn đoán bằng cách sử dụng:
Lịch sử y tế và khám thực thể. Trong kiểm tra, bác sĩ có thể phát hiện phản xạ hoạt động quá mức với rung nhẹ ngón tay khi hai tay đưa ra phía trước, thay đổi mắt và da ấm ẩm. Bác sĩ cũng sẽ kiểm tra tuyến giáp khi nuốt.
Xét nghiệm máu. Chẩn đoán có thể được khẳng định với các xét nghiệm máu đo lường mức thyroxine và TSH trong máu. Thyroxine cao hoặc TSH thấp hoặc không có, chỉ ra tuyến giáp hoạt động quá mức. Số lượng TSH là quan trọng bởi vì đó là tín hiệu hormone tuyến giáp để sản xuất nhiều thyroxine. Các xét nghiệm này đặc biệt cần thiết cho người cao niên, những người có thể không có triệu chứng kinh điển của cường giáp.
Nếu xét nghiệm máu cho thấy cường giáp, bác sĩ có thể khuyên nên một trong những thử nghiệm sau đây để giúp xác định lý do tại sao tuyến giáp hoạt động quá mức:
Thử nghiệm hấp thu I-ốt phóng xạ. Đối với thử nghiệm này, dùng một liều nhỏ iốt phóng xạ (radioiodine). Theo thời gian, iốt thu thập trong tuyến giáp bởi vì tuyến giáp sử dụng i-ốt để sản xuất kích thích tố. Sẽ kiểm tra sau hai, sáu hoặc 24 giờ – và đôi khi sau tất cả các khoảng thời gian 3 giờ – để xác định có bao nhiêu iốt tuyến giáp đã hấp thụ.
Một sự hấp thu cao I ốt phóng xạ cho thấy tuyến giáp sản xuất quá nhiều thyroxine. Việc có nhiều có khả năng gây ra hoặc là Graves hoặc tăng năng tuyến giáp. Nếu có cường giáp và hấp thụ I ốt phóng xạ thấp, có thể có viêm tuyến giáp.
Hãy nói với bác sĩ nếu đã X quang gần đây hay chụp cắt lớp vi tính, trong đó có vật liệu tương phản đã được tiêm. Kết quả của thử nghiệm I ốt phóng xạ có thể bị ảnh hưởng bởi các thủ tục này.
Biết được nguyên nhân gây cường giáp có thể giúp bác sĩ kế hoạch điều trị thích hợp. Thử nghiệm hấp thụ i-ốt phóng xạ không khó chịu, nhưng nó là một lượng nhỏ phóng xạ.
Chụp tuyến giáp. Trong thử nghiệm này, đồng vị phóng xạ được tiêm vào tĩnh mạch bên trong khuỷu tay hoặc đôi khi vào mạch máu trên bàn tay. Nằm trên bàn trong khi máy ảnh đặc biệt tạo ra hình ảnh tuyến giáp trên màn hình máy tính.
Thời gian cần thiết cho các thủ tục có thể khác nhau, tùy thuộc vào các đồng vị để đến tuyến giáp. Có thể có khó chịu cổ với thử nghiệm này, và sẽ tiếp xúc với lượng nhỏ phóng xạ.
Đôi khi có thể chỉ định chụp tuyến giáp như một phần của thử nghiệm hấp thụ phóng xạ iốt. Trong trường hợp đó, iốt phóng xạ đường uống được sử dụng với hình ảnh tuyến giáp.
Phương pháp điều trị và thuốc
Một số phương pháp điều trị cường giáp tồn tại. Cách tiếp cận tốt nhất phụ thuộc vào tuổi, tình trạng thể chất và mức độ nghiêm trọng của chứng rối loạn:
I-ốt phóng xạ. Uống iốt phóng xạ được hấp thu bởi tuyến giáp, nó thu nhỏ tuyến và các triệu chứng giảm dần, thường là trong vòng 3 – 6 tháng. Bởi vì điều trị nguyên nhân cường giáp chậm đáng kể, cuối cùng có thể cần phải uống thuốc mỗi ngày để thay thế thyroxine.
Thuốc kháng giáp. Những loại thuốc này giảm dần các triệu chứng của cường giáp bằng cách ngăn chặn tuyến giáp sản xuất thừa kích thích tố. Chúng bao gồm propylthiouracil và methimazole (Tapazole). Các triệu chứng thường bắt đầu cải thiện trong sáu đến 12 tuần, nhưng điều trị bằng thuốc kháng giáp trạng thường tiếp tục ít nhất một năm và thường dài hơn. Đối với một số người, điều này đã xóa bỏ vĩnh viễn các vấn đề, nhưng những người khác có thể bị tái phát. Cả hai loại thuốc có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng, đôi khi dẫn đến tử vong. Bởi vì propylthiouracil đã gây rất nhiều thiệt hại cho gan, nó thường được sử dụng chỉ khi không thể chịu đựng được methimazole.
Beta blockers. Các thuốc này thường được sử dụng để điều trị tăng huyết áp. Nó không làm giảm mức tuyến giáp, nhưng nó có thể làm giảm nhịp tim nhanh chóng và giúp ngăn ngừa đánh trống ngực. Vì lý do đó, bác sĩ có thể kê toa cho đến khi mức tuyến giáp tiến gần hơn với bình thường.
Phẫu thuật tuyến giáp. Nếu không thể chịu được thuốc kháng giáp và không muốn dùng iốt phóng xạ trị liệu, có thể phẫu thuật tuyến giáp, mặc dù đây là một tùy chọn chỉ trong một vài trường hợp.
Bác sĩ loại bỏ hầu hết các tuyến giáp. Rủi ro của phẫu thuật bao gồm thiệt hại dây thanh âm và tuyến cận giáp – bốn tuyến nhỏ nằm ở mặt sau của tuyến giáp có thể giúp kiểm soát mức độ canxi trong máu. Ngoài ra, cần phải điều trị suốt đời với levothyroxine (Levoxyl, Synthroid…) để cung cấp cho cơ thể với số lượng hormone tuyến giáp bình thường. Nếu tuyến cận giáp cũng được loại bỏ, cần uống thuốc để giữ mức canxi huyết bình thường.
Bệnh mắt Graves
Nếu Graves ảnh hưởng đến mắt (Graves’ ophthalmopathy), có thể quản lý các dấu hiệu và triệu chứng nhẹ bằng cách tránh gió và ánh sáng và sử dụng nước mắt nhân tạo và gel bôi trơn. Nếu các triệu chứng nặng hơn, bác sĩ có thể khuyên nên điều trị bằng corticosteroid, chẳng hạn như prednisone để làm giảm sưng phía sau nhãn cầu. Trong một số trường hợp, thủ tục phẫu thuật có thể là một lựa chọn:
Phẫu thuật giải nén hốc mắt (Orbital). Trong phẫu thuật này, bác sĩ loại bỏ các xương giữa hốc mắt và xoang – không gian bên cạnh ổ mắt. Khi thủ tục thành công, nó cải thiện tầm nhìn và cung cấp chỗ cho đôi mắt trở về vị trí bình thường. Nhưng có nguy cơ biến chứng, bao gồm nhìn đôi kéo dài xuất hiện sau khi phẫu thuật.
Phẫu thuật cơ mắt. Đôi khi mô sẹo từ bệnh mắt Graves có thể gây ra một hoặc nhiều cơ mắt quá ngắn. Điều này kéo mắt ra khỏi sự liên kết. Phẫu thuật cơ mắt có thể bằng cách cắt cơ bị ảnh hưởng từ các nhãn cầu và gán xa trở lại khắc phục nhìn đôi. Mục đích là để đạt được tầm nhìn duy nhất khi đọc và nhìn thẳng về phía trước. Trong một số trường hợp, có thể cần nhiều hơn một hoạt động để đạt được những kết quả này.
Phong cách sống và biện pháp khắc phục
Khi bắt đầu điều trị, các triệu chứng của cường giáp giảm dần và sẽ bắt đầu cảm thấy tốt hơn nhiều. Những đề nghị sau đây cũng có thể giúp:
Hãy hỏi bác sĩ về bổ sung chế độ ăn uống. Nếu đã giảm trọng lượng rất nhiều hoặc teo cơ bắp, có thể có lợi từ việc thêm calo và protein trong chế độ ăn uống. Bác sĩ hoặc chuyên viên dinh dưỡng có thể giúp lập kế hoạch bữa ăn. Trong hầu hết trường hợp, không cần phải tiếp tục bổ sung chế độ ăn uống khi cường giáp đang được kiểm soát.
Điều trị cường giáp có thể cũng dần dần đóng góp tăng cân quá mức. Điều quan trọng là tìm hiểu để có được dinh dưỡng từ thực phẩm càng nhiều càng tốt mà không cần ăn nhiều calo. Ngoài ra, ăn uống đúng số lượng natri và canxi là những cân nhắc quan trọng chế độ ăn uống cho người bị cường giáp.
Duy trì lượng canxi đầy đủ. Bởi vì cường giáp có thể góp phần làm loãng xương, điều quan trọng có được đủ canxi mỗi ngày để giúp ngăn ngừa loãng xương. Người lớn trẻ hơn 50 tuổi nên cho tổng 1.000 milligram hàng ngày, hoặc từ thức ăn hoặc từ bổ sung hoặc từ cả hai. Người lớn 50 tuổi trở lên sẽ nhận được 1.200 mg canxi mỗi ngày. Hỏi bác sĩ về việc dùng vitamin D bổ sung cùng với canxi.
Nếu có bệnh mắt hoặc bệnh da Graves, những gợi ý sau đây có thể giúp làm dịu mắt hoặc da:
Áp mát nén mắt. Thêm độ ẩm có thể cung cấp cứu trợ.
Đeo kính râm. Khi đôi mắt nhô ra, dễ bị tia cực tím và nhạy cảm với ánh sáng mặt trời. Đeo kính mát giúp bảo vệ chúng từ cả hai mặt trời và gió.
Sử dụng thuốc nhỏ mắt bôi trơn. Thuốc nhỏ mắt có thể giúp giảm khô và xước. Hãy chắc chắn sử dụng thuốc nhỏ mắt.
Nâng cao đầu giường. Giữ đầu cao hơn so với phần còn lại của cơ thể làm giảm lưu lượng máu đến đầu và có thể giúp giảm bớt áp lực trên mắt.
Hãy thử các loại kem toa cho da. Kem chứa hydrocortisone hoặc acetonide triamcinolone (Cortaid hoặc Kenalog…) có thể giúp làm giảm đỏ da, da bị sưng trên mào chày và bàn chân. Để được trợ giúp tìm những loại kem, nói chuyện với dược sĩ.
Đối phó và hỗ trợ
Nếu đã được chẩn đoán cường giáp, điều quan trọng nhất là phải nhận được sự chăm sóc y tế cần thiết. Sau khi bạn và bác sĩ đã quyết định hành động, có một số điều có thể làm sẽ giúp đối phó với tình trạng này và hỗ trợ cơ thể trong quá trình chữa bệnh.
Tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục nói chung sẽ giúp cảm thấy tốt hơn và cải thiện cơ bắp và hệ thống tim mạch. Tập thể dục chịu trọng lượng là quan trọng đối với những người bị bệnh Graves bởi vì nó giúp duy trì mật độ xương. Tập thể dục cũng có thể giúp làm giảm sự thèm ăn và gia tăng mức độ năng lượng.
Tìm hiểu kỹ thuật thư giãn. Nhiều kỹ thuật thư giãn có thể giúp duy trì quan điểm tích cực, đặc biệt là khi đối phó với bệnh tật. Nó cũng là lý do căng thẳng liên quan đến bệnh Graves, do đó, học tập để thư giãn và đạt được sự cân bằng trong cuộc sống có thể giúp duy trì thể chất và tinh thần được tốt.